Thuốc Streptokinase
1. Cơ chế tác dụng:
Streptokinase hoạt động theo cơ chế phức tạp với cả plasminogen liên kết và không liên kết với fibrin trong tuần hoàn để tạo thành phức hợp hoạt hóa – biến đổi plasminogen còn dư thành plasmin (là enzyme thủy phân protein) có tác dụng tiêu fibrin và có thể làm tan các cục máu đông trong lòng mạch.
Thuốc có tính kháng nguyên mạnh và do đó phải sẵn sàng để cấp cứu dị ứng. Có thể xảy ra kháng với liệu pháp streptokinase do có hiệu giá kháng thể kháng streptokinase cao sau một đợt điều trị streptokinase trước đó.
2. Chỉ định:
Huyết khối động mạch vành và nhồi máu cơ tim:
Được dùng theo đường tĩnh mạch hoặc động mạch vành để điều trị nhồi máu cơ tim cấp ở người lớn, cải thiện chức năng tâm thất, giảm kích thước nhồi máu và suy tim sung huyết, giảm tỷ lệ tử vong do nhồi máu cơ tim cấp.
Điều trị bằng streptokinase càng sớm thì lợi ích lâm sàng thu được càng lớn.
Nghẽn động mạch phổi:
Chỉ định streptokinase nhằm làm tan cục máu nghẽn ở phổi đã được chẩn đoán xác định ( bằng chụp mạch hay chụp cắt lớp CT phổi). Liệu pháp streptokinase nên bắt đầu càng sớm nếu có thể, không châm hơn 7 ngày, kể từ khi bắt đầu có triệu chứng tắc nghẽn.
Chứng huyết khối tĩnh mạch sâu:
Chỉ định streptokinase để làm tan cục huyết khối cấp, rộng, đã được chẩn đoán xác định ( bằng chụp tĩnh mạch đi lên). Huyết khối này nằm ở các tĩnh mạch sâu như tĩnh mạch khoeo và các tĩnh mạch ở gần gốc chi hơn.
Huyết khối và nghẽn động mạch:
Chỉ định dùng thuốc để làm tan huyết khối và nghẽn động mạch cấp. Không dùng streptokinase trong trường hợp nghẽn động mạch bắt nguồn từ tim trái có nguy cơ nghẽn mới như tắc động mạch não.
Nghẽn cầu nối động tĩnh mạch: Thuốc được chỉ định thay cho phẫu thuật lại cầu nối động tĩnh mạch đã bị tắc hoàn toàn hoặc một phần.
3. Chống chỉ định:
Vì điều trị làm tan huyết khối có nguy cơ gây xuất huyết nên streptokinase không được dùng cho những người bệnh: chảy máu trong, u não hoặc u trong ổ bụng, tăng huyết áp nặng không kiểm soát được, vừa mới bị tai biến mạch não ( trong vòng 2 tháng), phẫu thuật sọ não hay tủy.
Không dùng cho người đã từng bị dị ứng nặng với thuốc hay có nguy cơ dị ứng.
4. Thận trọng:
Streptokinase làm tan fibrin cầm máu tại nơi tiêm, nhất là khi phải truyền thuốc lâu vài giờ, có thể dẫn đến xuất huyết. Cần thận trọng trong tiêm tĩnh mạch theo dõi bệnh nhân thường xuyên giảm thiểu nguy cơ xuất huyết. Tuyệt đối không được tiêm bắp.
Nếu cần tiêm động mạch nên chọn động mạch chi trên. Sau khi tiêm, nên ép ít nhất 30 phút, đặt một băng ép và kiểm tra thường xuyên vị trí chọc kim để phát hiện chảy máu.
Cần cân nhắc lợi ích của thuốc khi dùng cho các trường hợp:
Vừa mới phẫu thuật lớn ( trong vòng 10 ngày);
Chảy máu nặng đường tiêu hóa ( trong vòng 10 ngày);
Bị chấn thương kể cả hồi sức tim phổi ( trong vòng 10 ngày);
Tăng huyết áp: Huyết áp tâm thu trên 180mmHg và/ hoặc huyết áp tâm trương trên 110mmHg;
Khả năng dễ bị huyết khối tim trái như hẹp van 2 lá có rung nhĩ;
Viêm nội tâm mạc bán cấp nhiễm khuẩn;
Rối loạn cầm máu bao gồm cả những rối loạn thứ phát do bệnh gan, bệnh thận nặng;
Phụ nữ mang thai;
Người trên 75 tuổi;
Bệnh mạch máu não;
Bệnh võng mạc xuất huyết do đái tháo đường;
Viêm tắc tĩnh mạch do nhiễm khuẩn hay tắc cầu nối động – tĩnh mạch tại nơi nhiễm khuẩn nặng.
Loạn nhịp tim trong điều trị nhồi máu cơ tim cấp do hội chứng tái tưới máu.
Điều trị bằng streptokinase trong thời gian từ 5 ngày đến 12 tháng sau đợt điều trị trước bằng streptokinase hoặc anistreplase, hoặc sau nhiễm liên cầu khuẩn sẽ không đem lại hiệu quả do hiện tượng kháng streptokinase.
Tiêm tĩnh mạch streptokinase sẽ gây giảm đáng kể plasminogen và fibrinogen, đồng thời làm tăng thời gian thrombonin, thời gian cephalin-kaolin. Những chỉ số này thường trở về bình thường trong vòng 12- 24 giờ. Sự thay đổi trên cũng có thể xảy ra ở một số người bệnh tiêm streptokinase vào động mạch vành.
Nên đánh giá kết quả về thời gian cephalin – kaolin hoặc nồng độ fibrinogen, hematocrit và số lượng tiểu cầu trước khi bắt đầu điều trị làm tan huyết khối.
Nên ngưng heparin nếu đang điều trị; tới khi thời gian thrombin và thời gian cephalin – kaolin có giá trị nhỏ hơn giá trị chứng bình thường 2 lần, thì mới tiến hành điều trị làm tan huyết khối. Trong khi truyền thuốc, sự giảm nồng độ plasminogen và fibrinogen cũng như sự tăng nồng độ của sản phẩm giáng hóa của fibrin/fibrinogen (2 yếu tố kéo dài thời gian đông máu), chứng tỏ có hiện tượng làm tan huyết khối. Vì vậy, hiệu quả điều trị bằng phương pháp này có thể được chứng minh bằng cách đo thời gian thrombonin, thời gian cephalin – kaolin, thời gian prothrombin hay nồng độ fibrinogen khoảng 4 giờ sau khi dùng thuốc.
5. Thời kỳ mang thai:
Chưa có công trình nghiên cứu về streptokinase trên quá trình sinh sản của súc vật. Chưa thấy có nguy cơ trực tiếp hay gián tiếp quan trọng nào của thuốc trên bào thai. Chỉ sử dụng streptokinase khi thật cần thiết và dùng khi thai trên 18 tuần.
6. Thời kỳ cho con bú:
Chưa có dữ liệu về vấn đề này. Do bản chất của các chỉ định dùng thuốc và do nửa đời rất ngắn ( khoảng 23 phút đối với phức hợp streptokinase – plasminogen) cho nên có cơ hội dùng thuốc trong thời kỳ cho con bú và tiềm năng tiếp xúc với thuốc của trẻ đang bú là rất ít.
7. Tác dụng không mong muốn:
Chảy máu hay rỉ máu từ những vết mổ hay kim chọc. Xuất huyết nhỏ có thể xảy ra, chủ yếu ở những vị trí bị tổn thương.
Xuất huyết: nội tạng nặng ở đường tiêu hóa ( kể cả xuất huyết gan), sinh dục, tiết niệu, sau màng bụng hoặc các vị trí trong não và đã dẫn đến tử vong.
Hạ huyết áp: đôi khi nặng, xảy ra trong khi truyền tĩnh mạch, không phải thứ phát sau xuất huyết hay sau phản ứng phản vệ chỉ mang tính tạm thời.
Loạn nhịp tim: Loạn nhịp nhĩ hoặc thất liên quan đến tưới máu trở lại. Loạn nhịp có liên đến tưới máu trở lại bao gồm nhịp riêng tâm thất tăng, phức bộ thất sớm; ít gặp hơn là rung thất, phức bộ nhĩ sớm, rung nhĩ, nhịp bộ nối nhịp nhanh thất và nhịp chậm xoang.
Tắc mạch do cholesterol: Mảng tím xanh hình lưới dưới da, tím đầu ngón chân, suy thận cấp,…
Dị ứng: đỏ mặt hay đỏ da, đau đầu, đau cơ, buồn nôn, phát ban ở da, mày đay hoặc ngứa, khó thở hoặc thở khò khè.
Các hiện tượng khác: Viêm tĩnh mạch gần chỗ tiêm truyền, phù phổi không do tim, bệnh đa rễ thần kinh, tăng transaminase, huyết thanh tạm thời.
8. Tương tác thuốc:
Các thuốc chống đông và kháng tiểu cầu: Dùng streptokinase kết hợp với các thuốc chống đông hoặc các chất ức chế tiểu cầu được chỉ định để phòng ngừa hiện tượng tắc nghẽn sau khi làm tan huyết khối ở động mạch vành. Tuy nhiên do phương pháp điều trị này chưa được chứng minh có lợi ích rõ rệt và có thể gây tăng nguy cơ biến chứng do xuất huyết, nên phải theo dõi cẩn thận.
Các thuốc có ảnh hưởng tới chức năng tiểu cầu: Trong điều trị nhồi máu cơ tim cấp, người ta đã chứng minh aspirin có tác dụng làm giảm tỷ lệ nhồi máu lại và giảm cơn đột quy. Dùng kết hợp streptokinase với aspirin làm tăng chút ít nguy cơ bị xuất huyết nhỏ nhưng không tỏ ra làm tăng tỷ lệ xuất huyết lớn. Vì vậy nếu kết hợp điều trị streptokinase với aspirin hoặc các thuốc có ảnh hưởng tới chức năng của tiểu cầu (như dipyridamol) thì người bệnh phải được theo dõi cẩn thận để phát hiện xuất huyết.
Các thuốc chống tiêu sợi huyết: Tác dụng hoạt hóa plasminogen của streptokinase bị ức chế bởi các chất chống tiêu sợi huyết như acid aminocaproic. Các thuốc này được dùng để chống lại tác dụng làm tiêu fibrin của streptokinase.
9. Tương kỵ:
Streptokinase tương kỵ với dextran. Không cho thêm bất kỳ chất nào khác vào vật đựng dung dịch streptokinase hay cùng tiêm truyền vào một tĩnh mạch.
Bệnh viện Lê Văn Thịnh với đội ngũ Y Bác sĩ có trình độ chuyên môn cao, tận tâm và luôn lấy Người bệnh làm trung tâm cho mọi hoạt động, nếu Người bệnh có vấn đề sức khỏe, hay cần biết thêm thông tin hãy đến Bệnh viện Lê Văn Thịnh để được tư vấn, thăm khám và điều trị.
Dược sĩ
Lương Ngọc Khánh Ngân
(Tài liệu tham khảo: Theo tờ hướng dẫn từ nhà sản xuất)