PHU.jpg

18 Tháng Mười, 2022 Truyền Thông

Phù mạch là hiện tượng sưng cục bộ đột ngột của da hoặc niêm mạc do sự gia tăng thoáng qua tính thấm của nội mô và sự thoát mạch của huyết tương vào các mô kẽ.

Vildagliptin là một chất ức chế dipeptidyl peptidase-4 (DPP-4) được tài trợ gần đây được chỉ định để cải thiện việc kiểm soát đường huyết ở bệnh tiểu đường tyb 2. Thuốc ức chế men chuyển (thuốc ức chế men chuyển) được chỉ định để điều trị bệnh thận do đái tháo đường, trong số các cách sử dụng khác, và do đó hai loại thuốc này thường được sử dụng cùng nhau.

1. Phù mạch do ức chế men chuyển

Phù mạch được báo cáo là xảy ra ở khoảng 0,2 đến 2,5 phần trăm bệnh nhân dùng thuốc ức chế men chuyển. Nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong quá trình điều trị.

Phù mạch do ức chế men chuyển chủ yếu ảnh hưởng đến vùng đầu và cổ, đặc biệt là môi, lưỡi, mặt và đường hô hấp trên, do đó có thể đe dọa tính mạng. Ít phổ biến hơn, phù mạch có thể biểu hiện như đau bụng cấp tính liên quan đến tiêu chảy hoặc các triệu chứng tiêu hóa khác, do liên quan đến nội tạng. Nó không liên quan đến ngứa hoặc nổi mày đay.

2. Tăng nguy cơ phù mạch khi dùng vildagliptin và thuốc ức chế men chuyển

Phù mạch hiếm khi gặp ở bệnh nhân đơn trị liệu vildagliptin, nhưng nguy cơ tăng lên ở những bệnh nhân cũng đang dùng thuốc ức chế men chuyển. Mặc dù nguy cơ tuyệt đối là nhỏ, nhưng nhiều khả năng nhiều bệnh nhân được kê đơn vildagliptin cũng sẽ dùng thuốc ức chế men chuyển. Cân nhắc tương tác thuốc-thuốc có thể xảy ra nếu bệnh nhân dùng những loại thuốc này có biểu hiện phù mạch. Kiểm tra tờ hướng dẫn thuốc để biết thêm thông tin. Bệnh nhân sử dụng đồng thời vildagliptin và ACEI cần được theo dõi triệu chứng phù mạch. Nhắc nhở bệnh nhân báo cáo cho bác sĩ khi bất kỳ triệu chứng phù mạch nào xuất hiện.

3. Cơ chế đề xuất

Chất P và bradykinin là những chất giãn mạch liên quan đến cơ chế bệnh sinh của bệnh phù mạch. ACE và DPP-4 tham gia vào quá trình phân hủy chất P, và ACE là một trong những enzym phân hủy bradykinin.

So với ức chế ACE hoặc DPP-4 đơn thuần, ức chế cả hai enzym bằng cách sử dụng kết hợp chất ức chế ACE và vildagliptin làm tăng nguy cơ tích tụ chất P và bradykinin, dẫn đến phù mạch.

Bệnh viện Lê Văn Thịnh với đội ngũ Y Bác sĩ có trình độ chuyên môn cao, tận tâm và luôn lấy Người bệnh làm trung tâm cho mọi hoạt động, nếu Người bệnh có vấn đề về sức khỏe hay cần biết thêm thông tin hãy đến Bệnh viện Lê Văn Thịnh để được tư vấn, thăm khám và điều trị.

                                                                                                                    DS.Huỳnh Thị Thanh Thủy

( Nguồn: Cảnh giác dược )

 

                                                                                                                                 

                                                                                                                             


nk_24092022093600.jpg

30 Tháng Chín, 2022 Tin TứcTruyền Thông
Adenovirus là loại virus phổ biến thường gây ra bệnh cảm lạnh hoặc cúm nhẹ. Adenovirus có thể gây bệnh cho mọi người ở mọi lứa tuổi bất cứ lúc nào trong năm.
1. Triệu chứng

Adenovirus có thể gây ra một loạt các bệnh bao gồm:

  • Các triệu chứng giống như cảm lạnh hoặc cúm thông thường.
  • Sốt.
  • Đau họng.
  • Đau mắt đỏ (viêm kết mạc).
  • Viêm phế quản cấp tính (viêm đường hô hấp phổi, đôi khi được gọi là”lạnh ngực”).
  • Viêm phổi (nhiễm trùng phổi, đôi khi nghiêm trọng).
  • Tiêu chảy.
  • Viêm dạ dày ruột cấp tính (viêm dạ dày hoặc ruột gây ra tiêu chảy, nôn mửa, buồn nôn và đau dạ dày).

Các bệnh ít phổ biến hơn do adenovirus gây ra bao gồm nhiễm trùng bàng quang hoặc viêm và bệnh thần kinh (tình trạng ảnh hưởng đến não và tủy sống) 

Adenovirus có các triệu chứng giống như cảm lạnh hoặc cúm thông thường – Ảnh minh họa: nguồn Internet
2. Adenovirus lây truyền như thế nào?

Adenovirus thường lây lan từ người bị nhiễm sang những người khác thông qua:

  • Tiếp xúc cá nhân gần gũi, chẳng hạn như chạm hoặc bắt tay.
  • Không khí bằng cách ho và hắt hơi.
  • Chạm vào một vật thể hoặc bề mặt có adenovirus trên đó, sau đó chạm vào miệng, mũi hoặc mắt trước khi rửa tay
  • Tiếp xúc vật dụng của người đang bị nhiễm.
3. Ai có nguy cơ bị nhiễm Adenovirus?

Mọi đối tượng ở mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh lây nhiễm Adenovirus. Sau khi người bệnh gặp phải Adenovirus sẽ có miễn dịch đặc hiệu với Type bị nhiễm. Trường hợp bị tái nhiễm có thể đến từ type khác của Adenovius. Đến nay vẫn chưa có thông tin chính thức về vai trò cũng như thời gian miễn dịch sau khi Adenovirus xâm nhập vào cơ thể.

Tuy nhiên, bệnh do Adenovius gây ra thường thấy ở những người có sức đề kháng yếu như trẻ nhỏ, người cao tuổi, người bị bệnh mạn tính,… Trong đó đặc biệt là đối tượng trẻ em trong giai đoạn từ 6 tháng – 5 tuổi cha mẹ cần lưu ý về sức khỏe của con trong giai đoạn giao mùa dịch đang bùng phát mạnh.

4. Cách phòng ngừa Adenovirus
  • Luôn đảm bảo có nguồn nước sạch đủ dùng cho sinh hoạt. Nhất là trong mùa mưa lũ, cần sử dụng nguồn nước sạch đã được khử trùng.
  • Giữ gìn vệ sinh cá nhân sạch sẽ, không dùng chung khăn mặt và thường xuyên giặt khăn bằng xà phòng, phơi dưới ánh nắng.
  • Khi chăm sóc bệnh nhân nhiễm bệnh thì không được sử dụng chung đồ với người bệnh, nhất là khăn mặt và các đồ dùng có thể bị nhiễm các chất xuất tiết của bệnh nhân như bát, thìa, cốc, chén, giường… Thực hiện sát trùng các đồ dùng bệnh nhân trong giai đoạn mắc bệnh.
  • Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước trong ít nhất 20 giây
  • Tránh chạm tay chưa rửa vào mắt, mũi hoặc miệng.
  • Che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi

Bệnh do Adenovirus rất dễ lây lan bằng cách trực tiếp và gián tiếp, nên cũng dễ bùng phát thành dịch chính vì vậy khi phát hiện bản thân hay những người xung quanh mình nhiễm Adenovirus cần có các biện pháp phòng ngừa hợp lý, tránh bệnh bùng phát thành dịch.

5. Cách điều trị bệnh do Adenovirus
  • Không có phương pháp điều trị cụ thể hoặc thuốc kháng vi-rút được phê duyệt cho mọi người bị nhiễm adenovirus. Những người bị bệnh nặng có thể cần được chăm sóc trong bệnh viện để giúp họ phục hồi. Hầu hết các trường hợp nhiễm adenovirus đều nhẹ và có thể chỉ cần chăm sóc để giúp giảm các triệu chứng.
  • Một số phương pháp điều trị bệnh đang được áp dụng phổ biến là nâng cao sức đề kháng của bệnh nhân, điều trị các triệu chứng bệnh và dùng thuốc kháng sinh theo sự chỉ định của Bác sĩ đối với những trường hợp bị bội nhiễm. Người bệnh cần được bổ sung dinh dưỡng để tăng cường sức đề kháng.

Nếu có vấn đề về sức khỏe Người bệnh nên đến ngay cơ sở Y tế để được thăm khám và tư vấn.

Theo dõi website: benhvienlevanthinh.vn để nắm thêm nhiều thông tin sức khỏe, dinh dưỡng, làm đẹp để bảo vệ sức khỏe cho bản thân và những người thân yêu trong gia đình.

Dược sĩ

Trần thị diễm trang

(Theo CDC)



30 Tháng Chín, 2022 Tin TứcTruyền Thông

CLOPIDOGREL 75 mg Chỉ định và những lưu ý khi dùng

Tên thuốc gốc (Hoạt chất): Clopidogrel

Loại thuốc: Thuốc ức chế kết tập tiểu cầu

Hàm lượng: 75mg

  1. Chỉ định:

Phòng ngừa các biến cố huyết khối do xơ vữa động mạch

Clopidogrel được chỉ định dùng cho:

– Các bệnh nhân là người lớn bị NMCT (từ vài ngày đến ít hơn 35 ngày), đột quỵ do thiếu máu cục bộ (từ 7 ngày đến ít hơn 6 tháng) hoặc bệnh lý động mạch ngoại biên đã thành lập.

– Các bệnh nhân là người lớn bị hội chứng mạch vành cấp tính:

+ Hội chứng mạch vành cấp tính không có đoạn ST chênh lênh, bao gồm các bệnh nhân có đặt giá đỡ mạch vành (stent) trong quá can thiệp động mạch vành qua da, dùng kết hợp với Aspirin.

+ NMCT cấp tính có đoạn ST chênh lên dùng kết hợp với Aspirin ở bệnh nhân được điều trị nội khoa và điều trị bằng thuốc tiêu sợi huyết.

Dự phòng các biến cố thuyến tắc huyết khối do xơ vữa ở bệnh nhân rung nhĩ: Bệnh nhân trưởng thành bị rung nhĩ có ít nhất một yếu tố nguy cơ gặp các biến cố tim mạch, không thể sử dụng được thuốc kháng vitamin K và có nguy cơ xuất huyết thấp, có thể được chỉ định dùng Clopidogrel kết hợp với Aspirin để dự phòng huyết khối xơ vữa và các biến cố thuyên tắc huyết khối.

  1. Liều dùng và cách dùng:

 Người trưởng thành và người già:

Clopidogrel được khuyên dùng với liều duy nhất 75mg/ngày.

+ Hội chứng mạch vành cấp tính không đoạn ST chênh lênh, nên bắt đầu điều trị bằng Clopidogrel với liều nạp 300mg dùng một lần duy nhất và sau đó tiếp tục với liều 75mg một lần/ngày (kết hợp với Aspirin 75mg-325mg hằng ngày). Do liều Aspirin càng cao thì nguy cơ xuất huyết càng cao do vậy không nên dùng Aspirin với liều vượt quá 100mg. Thời gian điều trị tối ưu chưa được xác định chính thức. Dữ liệu từ các nghiên cứu lâm sàng hỗ trợ việc dùng đến 12 tháng và lợi ích tối đa được ghi nhận từ tháng thứ 3.

+ Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lênh: dùng liều nạp Clopidogrel 300mg kết hợp với Aspirin, sau đó dùng 75mg mỗi ngày kết hợp với Aspirin và với hoặc không biện pháp làm tiêu huyết khối. Ở bệnh nhân trên 75 tuổi, không dùng liều nạp lúc khởi đầu điều trị. Liệu pháp kết hợp nên được khởi đầu càng sớm càng tốt sau khi bắt đầu có triệu chứng và tiếp tục duy trì ít nhất 4 tuần. Lợi ích của sự kết hợp giữa Clopidogrel với Aspirin dùng sau 4 tuần chưa được nghiên cứu.

Ở bệnh nhân rung nhĩ, nên dùng Clopidogrel 75 mg liều duy nhất/ngày kết hợp Aspirin (75mg-100mg).

Nếu quên dùng một liều:

– Trong vòng dưới 12 giờ sau khi dùng liều theo liệu trình thông thường: bệnh nhân nên dùng ngay1 liều kế tiếp theo đúng lịch trình thông thường.

– Nếu trên 12 giờ theo lịch trình thông thường: bệnh nhân nên dùng liều kế tiếp theo lịch trình thông thường và không nên dùng gấp đôi liều.

– Bệnh nhi:

Do chưa có đủ dữ liệu về hiệu quả nên không dùng Clopidogrel cho trẻ em.

– Bệnh nhân suy thận:

Chưa có kinh nghiệm dùng Clopidogrel ở những bệnh nhân này.

– Bệnh nhân suy gan:

Chưa có kinh nghiệm dùng Clopidogrel ở bệnh nhân suy gan vừa và nhẹ, vốn là những người có thể tạng dễ chảy máu.

– Phụ nữ có thai và cho con bú:

Không thích hợp sử dụng cho đối tượng này như một biện pháp phòng ngừa.

  1. Tác dụng không mong muốn:

Clopidogrel làm tăng nguy cơ chảy máu, có thể nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng. Hãy thông báo cho Bác sĩ nếu bạn bị chảy máu không ngừng, có máu trong nước tiểu, phân đen hoặc có máu, hoặc ho ra máu hoặc nôn mửa, chảy máu cam, da nhợt nhạt, dễ bầm tím, có đốm tím dưới da hoặc trong miệng của bạn; vàng da (vàng da hoặc mắt của bạn); nhịp tim nhanh, khó thở; nhức đầu, sốt, suy nhược, cảm thấy mệt mỏi; ít hoặc không đi tiểu; một cơn động kinh; lượng đường trong máu thấp – nhức đầu, đổ mồ hôi, khó chịu, chóng mặt, nhịp tim nhanh và cảm thấy lo lắng hoặc run rẩy; hoặc dấu hiệu của cục máu đông – đột ngột tê hoặc yếu, lú lẫn, các vấn đề về thị lực hoặc lời nói.

  1. Tương tácthuốc:

Các thuốc có liên quan đến nguy cơ chảy máu: tăng nguy cơ chảy máu khi kết hợp với Clopidogrel như: Thuốc kháng đông đường uống, Thuốc ức chế thụ thể glycoprotein IIa/IIIb, Aspirin, Heparin, Thuốc tiêu sợi huyết, Thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs),….

Các thuốc ức chế men CYP2C19 kết hợp với Clopidogrel có thể làm giảm hiệu quả điều trị: Omeprazol và Esomeprazol, Fluvoxamine, Fluoxetine, Moclobemide, Voriconazole, Fluconazole, Ticlopidine, Carbamazepine, Efavirenz.

Clopidogrel cho thấy làm tăng tác hại của thuốc Repaglinide, do ức chế CYP2C8 bởi các chất chuyển hóa glucoronide của Clopidogrel làm tăng nồng độ Repaglinide trong huyết tương.

Tương tác thuốc có thể thay đổi cách thức hoạt động của Clopidogrel hoặc làm tăng nguy cơ các tác dụng phụ nghiêm trọng. Do vậy, người bệnh cần thông báo cho Bác sĩ các thuốc hiện tại đang sử dụng để Bác sĩ hoặc Dược sĩ tư vấn cụ thể. Tuyệt đối không được tự ý bắt đầu, ngừng hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có chỉ định từ bác sĩ.

  1. Chống chỉ định:

– Mẫn cảm với hoạt chất chính hoặc với bất kỳ thành phần nào của thuốc.

– Đang chảy máu bệnh lý như loét tiêu hóa hoặc xuất huyết nội sọ.

– Suy gan nặng.

Để biết thêm thông tin, quý khách vui lòng đến Bệnh viện Lê Văn Thịnh để được tư vấn trực tiếp.

DS.Hoàng Thị Thùy Dung

Tài liệu tham khảo: Hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất, drugs.com.



30 Tháng Chín, 2022 Tin TứcTruyền Thông

                               Colchicin – những lưu ý khi sử dụng trong điều trị gout.

  1. Tìm hiểu về colchicin:

Colchicin là alcaloid có nguồn gốc thực vật, chiết xuất từ các loài thực vật Colchium autumnale ( tỏi độc, bả chó, thu thủy tiên) và Gloriosa superba ( ngọt nghẹo).

Từ lâu Colchicin được dùng trong điều trị đợt gout cấp nhờ đặc tính kháng viêm của thuốc do ức chế sự di chuyển của bạch cầu, ức chế ứng động hóa học, chuyển hóa và chức năng của bạch cầu đa nhân nên giảm các phản ứng viêm. Tuy nhiên Colchicin có nhược điểm là khoảng trị liệu hẹp nếu không sử dụng đúng cách thì colchicin lại là loại thuốc có nguy cơ cao do có độc tính nghiêm trọng.

Colchicin được chỉ định dùng trong vòng 36 giờ từ lúc khởi phát cơn gout cấp ( tốt nhất trong vòng 12 hoặc 24 giờ).

  • Liều ban đầu là 0,5- 1,2 mg, sau đó cứ cách 1- 2 giờ lại uống 0,5 – 0,6 mg hoặc cứ cách 2 giờ lại uống 1-1,2 mg cho đến khi hết triệu chứng. Tổng liều trung bình trong một đợt điều trị là 4-6 mg.
  • Đau và sưng khớp thường giảm sau 12 giờ và thường hết hẳn sau khi dùng thuốc 48-72 giờ.
  • Nếu uống lại thì đợt thuốc mới phải cách lần uống cũ 2-3 ngày nếu không thì các tổn thương do colchicin gây ra chưa kịp hồi phục và thuốc có thể bị tích tụ.
  • Dự phòng viêm khớp gút tái phát (bệnh nhân có 1 hoặc vài đợt cấp mỗi năm): Uống colchicin liều thường dùng 0,6 mg/ngày, 3 – 4 lần mỗi tuần. Dự phòng cho người bị gút phải phẫu thuật (ngay cả tiểu phẫu): 0,6 mg/lần, 3 lần mỗi ngày trong 3 ngày trước và 3 ngày sau phẫu thuật.
  1. Tác dụng không mong muốn
  • Thường gặp: Buồn nôn, nôn, đau bụng, với liều cao: tiêu chảy nặng, chảy máu dạ dày – ruột, nổi ban, tổn thương thận.
  • Ít gặp: Viêm thần kinh ngoại biên, rụng tóc, rối loạn về máu (trị liệu dài ngày), giảm tinh trùng (hồi phục được).
  1. Hướng dẫn cách xử trí ADR
  • Tác dụng phụ thường gặp nhất khi uống colchicin là buồn nôn, đau bụng, nôn và tiêu chảy. Cần ngừng dùng colchicin nếu có các triệu chứng rối loạn tiêu hóa trên vì đó là các dấu hiệu báo động sớm về khả năng có thể sẽ bị ngộ độc nặng hơn. Trị liệu chỉ được tiếp tục khi hết các triệu chứng trên và thường sau 24 – 48 giờ. Có thể dùng các thuốc chống tiêu chảy hay thuốc làm chậm nhu động ruột để điều trị tiêu chảy do colchicin gây ra.
  • Điều trị dài ngày: Cần theo dõi đều đặn xem người bệnh có bị tác dụng phụ không, kiểm tra đều đặn các tế bào máu, công thức bạch cầu. Khi có các tác dụng phụ thì phải hiểu đó là dấu hiệu đầu tiên của ngộ độc. Nên ngừng dùng colchicin hoặc phải giảm liều.
  1. Tương tác làm tăng nguy cơ ngộ độc colchicin:
  • Nguy cơ ngộ độc colchicin tăng khi dùng kèm với chất ức chế cytochrom P450 3A4 hoặc P- glycoprotein như các thuốc kháng nấm nhóm azol ( fluconazol), thuốc chẹn kênh calci ( diltiazem, verapamil) và kháng sinh nhóm macrolid ( erythromycin ).
  • Dùng đồng thời colchicin và ciclosporin làm tăng độc tính của ciclosporin.
  • Colchicin làm giảm hấp thu vitamin B12 do tác động độc đối với niêm mạc ruột non. Sự  hấp thu này có thể  được phục hồi.
  • Colchicin có thể tăng đáp ứng với các thuốc giống thần kinh giao cảm và  thuốc ức thần kinh.
  1. Thông tin dành cho cán bộ y tế.
  • Tuân thủ chế độ liều lượng được khuyến cáo trong tờ thông tin sản phẩm.
  • Giảm liều trên bệnh nhân lớn tuổi ( đặc biệt ở bệnh nhân trên 75 tuổi), Bệnh nhân suy giảm chức năng gan, suy giảm chức năng thận, bệnh nhân có nguy cơ suy giảm chức năng thận, bệnh nhân có nguy co suy  giảm chức năng thận ( nguy cơ mất nước, dùng thuốc đồng thời) và theo dõi sát những bệnh nhân này.
  • Tuân thủ các chống chỉ định:

– Ở người suy thận nặng ( độ thanh thải creatinin < 30ml/ phút )

– Suy gan nặng.

  • Kiểm tra các nguy cơ tương tác thuốc.
  • Không kết hợp colchicin cùng với pristinamycin hoặc các kháng sinh macrolid ( ngoại trừ spiramycin) do có tương tác thuốc chống chỉ định.
  1. Tư vấn bệnh nhân:
  • Luôn tuân thủ chế độ liều.
  • Hướng dẫn rõ ràng về cách dùng colchicin, đặc biệt là liều tối đa của thuốc.
  • Đảm bảo bệnh nhân nhận thức được rằng colchicin không phải thuốc giảm đau thông thường và không nên dùng để giảm đau không phải do nguyên nhân gút.
  • Dặn bệnh nhân thông báo cho bác sĩ hoặc dược sĩ tất cả các thuốc đang dùng và kiểm tra lại thông tin về sử dụng colchicin trước khi kê đơn thêm các thuốc mới.
  • Nhanh chóng báo cho nhân viên y tế nếu gặp triệu chứng tiêu chảy, buồn nôn, nôn. Cân nhắc giảm liều hoặc ngừng thuốc trong trường hợp này.
  •                                                                                                                                          DS.Huỳnh Thị Thanh Thủy

Nguồn: Dược thư 2018 – Bản tin cảnh giác dược


muoi1.png

16 Tháng Chín, 2022 Tin TứcTruyền Thông
Ảnh minh họa – nguồn Internet

Ngày 24/5/2022, Uỷ ban Châu Âu đã có quyết định pháp lý cuối cùng về việc đình chỉ lưu hành dịch truền hydroxyethyl starch (HES) tại thị trường Châu Âu. Cơ quan này cũng đề xuất trong trường hợp vì lý do sức khỏe cộng đồng, từng quốc gia thành viên tại liên minh Châu Âu có thể trì hoãn việc đình chỉ lưu hành các chế phẩm chứa HES nhưng không quá 18 tháng kể từ sau thông báo của Ủy ban Châu Âu và trong thời gian đó cần đảm bảo áp dụng các biện pháp giảm thiểu nguy cơ với dịch truyền HES còn trên thị trường.

Sau biện pháp quản lý của EMA, Cơ quan quản lý Dược phẩm một số nước tại Châu Âu như Anh và Pháp đã đưa thông tin liên quan đến quyết định của EMA. Trong đó, Cơ quan quản lý Dược phẩm Anh đề cập hiện không còn chế phẩm chứa HES lưu hành tại nước này. Hiện tại, Cơ quan quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chưa có động thái quản lý mới. Thông tin cảnh báo gần nhất được FDA đưa ra vào tháng 7/2021 [4]. Cơ quan này thông báo đã hoàn thành việc đánh giá dữ liệu và thông tin về độ an toàn của các chế phẩm chứa HES. Kết quả cho thấy các nguy cơ nghiêm trọng liên quan đến việc sử dụng các chế phẩm HES, gồm có:

  1. Tử vong, tổn thương thận cấp cần điều trị thay thế thận, chảy máu kéo dài ở những bệnh nhân phẫu thuật được điều trị bằng các chế phẩm chứa HES.
  2. Tử vong và tổn thương thận cấp ở những bệnh nhân chấn thương kín được điều trị bằng chế phẩm chứa HES.

FDA yêu cầu thay đổi thông tin trong mục “cảnh báo được đóng khung” để làm nổi bật nguy cơ gây tử vong, tổn thương thận và chảy máu kéo dài, đồng thời đi kèm khuyến cáo không nên sử dụng các sản phẩm chứa HES trừ khi không có phương pháp điều trị thay thế thích hợp.

Các chế phẩm chứa HES được chỉ định trong trường hợp giảm thể tích tuần hoàn do mất máu cấp tính khi việc sử dụng dịch truyền đơn thuần không mang lại hiệu quả đầy đủ. Theo Hướng dẫn điều trị sốt xuất huyết của Tổ chức y tế thế giới (WHO) (2009) có thể sử dụng các dịch truyền cao phân tử chứa gelatin, dextran hoặc starch. Hướng dẫn dự phòng và kiểm soát sốt xuất huyết của WHO khu vực Đông Nam Á (2011) đưa ra một số nguyên tắc chung với truyền dịch trong sốt xuất huyết như sau:

– Nên sử dụng dịch truyền tinh thể đẳng trương trong suốt giai đoạn nặng của bệnh, trừ trẻ nhỏ <6 tháng tuổi có thể sử dụng natri clorid 0,45%.

– Có thể sử dụng dịch keo có áp suất thẩm thấu cao (>300 mOsm/l) như dextra 40 và starch ở bệnh nhân bị thoát huyết tương nặng và bệnh nhân sử dụng dịch truyền tinh thể đơn độc không có hiệu quả đầy đủ. Các dung dịch keo áp suất thẩm thấu tương đương như huyết tương và dịch thay thế huyết tương có thể không hiệu quả.

– Bổ sung dịch truyền với thể tích cao hơn 5% (tính lượng mất nước) để duy trì thể tích và tuần hoàn nội mạch.

– Thời gian điều trị bằng dịch truyền tĩnh mạch không quá 24-48 giờ đối với bệnh nhân bị sốc. Thời gian truyền dịch cho bệnh nhân không bị sốc có thể kéo dài từ 60-72 giờ.

– Ở bệnh nhân béo phì, cần áp dụng cân nặng lý tưởng để tính toán thể tích dịch truyền.

Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị sốt xuất huyết Dengue (2019) của Bộ Y tế Việt Nam cũng khuyến cáo sử dụng các dung dịch cao phân tử như dextran 40 hoặc 70, hydroxyethyl starch (HES 200.000 dalton) trong điều trị sốt xuất huyết nặng.

Dược sĩ

 ĐINH KHẮC THÀNH ĐÔ

Nguồn: Cảnh giác Dược


nsaid-1-16629643012401238549749-1200x800.jpeg

16 Tháng Chín, 2022 Tin TứcTruyền Thông

Cảnh báo này đã được đưa ra từ tháng 10/2020.

Cập nhật tháng 9/2022: Bổ sung danh mục 2 thuốc NSAID không được FDA cấp phép bao gồm salsalate và cholin magie trisalicylate

FDA cảnh báo rằng việc sử dụng các thuốc chống viêm nonsteroid cho phụ nữ mang thai từ 20 tuần tuổi có thể dẫn tới các vấn đề trên thận hiếm gặp nhưng nghiêm trọng cho thai nhi. Tình trạng này có thể gây ra thiểu ối và các biến chứng sau đó. Các NSAID là thuốc được sử dụng phổ biến để giảm đau và hạ sốt. Các thuốc này bao gồm aspirin, ibuprofen, naproxen, diclofenac và celecoxib. Ở phụ nữ mang thai từ 20 tuần trở lên, nước ối chủ yếu do thận của thai nhi tạo ra, do vậy các vấn đề trên thận có thê làm giảm lượng nước ối. Nước ối tạo ra lớp đệm bảo vệ và giúp phổi, hệ tiêu hóa và cơ của thai nhi phát triển.

Tránh sử dụng NSAID cho phụ nữ mang thai từ 20 tuần tuổi trở lên. Ảnh minh họa – nguồn Internet

Mặc dù vấn đề an toàn thuốc này đã được nhiều chuyên khoa biết đến, FDA muốn truyền thông các khuyến cáo rộng rãi hơn để giáo dục cho các nhân viên y tế khác và phụ nữ mang thai. Thông tin an toàn này liên quan đến tất cả các thuốc NSAID kê đơn và không kê đơn (OTC).

Đối với NSAID cần kê đơn trước khi sử dụng, FDA yêu cầu thay đổi thông tin kê đơn để mô tả các vấn đề trên thận của thai nhi có thể dẫn tới thiểu ối. FDA khuyến cáo tránh sử dụng NSAIDS ở phụ nữ mang thai từ 20 trở lên thay vì 30 tuần như trong tờ thông tin sản phẩm hiện tại. Từ khoảng 30 tuần tuổi trở đi, NSAID có thể gây ra vấn đề trên tim ở thai nhi. Trong trường hợp cần sử dụng NSAID ở phụ nữ mang thai từ 20-30 tuần, cần sử dụng thuốc với liều thấp nhất có hiệu quả và trong thời gian ngắn nhất có thể. Thông tin kê đơn cũng được thay đổi để bổ sung việc cân nhắc siêu âm theo dõi nước ối nếu sử dụng NSAID dài hơn 48 giờ.

FDA cũng cập nhật nhãn của các thuốc NSAID không kê đơn sử dụng ở người lớn. Hiện tại, nhãn của các thuốc này đã cảnh báo tránh sử dụng NSAID trong 3 tháng cuối thai kỳ vì có thể gây ra các vấn đề trên thai nhi hoặc các biến chứng trong quá trình chuyển dạ. Nhãn các thuốc đã khuyến cáo phụ nữ mang thai và phụ nữ cho con bú cần hỏi ý kiến nhân viên y tế trước khi sử dụng thuốc.

Khuyến cáo này không bao gồm aspirin liều thấp 81 mg được chỉ định trong một số tình trạng của phụ nữ mang thai ở mọi thời điểm của thai kỳ dưới sự chỉ định của bác sĩ điều trị.

Thông tin dành cho nhân viên y tế

FDA khuyến cáo nhân viên y tế nên hạn chế kê đơn NSAID cho phụ nữ mang thai từ 20-30 tuần và tránh kê đơn sau 30 tuần. Trong trường hợp cần chỉ định, nên sử dụng thuốc với liều thấp có hiệu quả trong thời gian ngắn nhất có thể. Cân nhắc siêu âm theo dõi nước ối nếu thời gian điều trị dài hơn 48 giờ và ngừng NSAID nếu phát hiện thiểu ối.

Thông tin dành cho phụ nữ mang thai

Phụ nữ mang thai từ 20 tuần trở lên không nên sử dụng NSAIDs trừ trường hợp đặc biệt được bác sĩ khuyến cáo vì các loại thuốc này có thể gây ra hại cho thai nhi. Trao đổi với bác sĩ điều trị về nguy cơ và lợi ích của các thuốc này trước khi sử dụng, đặc biệt từ tuần 20 trở lên. Vì nhiều loại thuốc không cần kê đơn có chứa NSAID, cần đọc kỹ nhãn thuốc để biết chế phẩm đó có chứa NSAID hay không. Nếu không chắc chắn, hãy nhờ nhân viên y tế giúp đỡ.

Các loại thuốc khác như paracetamol đều có sẵn để hạ sốt và giảm đau trong thời kỳ mang thai. Trao đổi với dược sĩ hoặc bác sĩ để được hỗ trợ lựa chọn điều trị tốt nhất.

Các thuốc NSAID được FDA cấp phép lưu hành trên thị trường gồm có: aspirin, celecoxib, diclofenac, diflunisal, etodolac, fenoprofen, flurbiprofen, ibuprofen, indomethacin, ketoprofen, meclofenamate, mefenamic acid, meloxicam, nabumetone, naproxen, oxaprozin, piroxicam, sulindac, tolmetin.

Các thuốc NSAID không được FDA cấp phép bao gồm salsalate và cholin magie trisalicylate.

Theo dõi Website:https://benhvienlevanthinh.vn để nắm thêm nhiều thông tin về y tế nhằm bảo vệ sức khỏe cho bản thân và những người thân yêu trong gia đình.

Dược sĩ

Trần Thị Diễm Trang

Nguồn: Cảnh giác Dược



31 Tháng Tám, 2022 Tin TứcTruyền Thông

Cục Quản lý Dược vừa có công văn số 8035/QLD-CL ngày 19/08/2022 về việc mẫu Ophazidon giả, số lô 290621, 390721, 540921 và 691121.

Kết quả kiểm nghiệm các mẫu không đạt tiêu chuẩn chất lượng về các chỉ tiêu Định tính, Định lượng (cafein) và Định lượng (paracetamol). Cục Quản lý Dược đề nghị Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương, Y tế các ngành

1- Thông báo cho các cơ sở kinh doanh, sử dụng thuốc thông tin về 04 lô thuốc giả trên có các đặc điểm, dấu hiệu phân biệt với thuốc thật

Thông tin trên nhãn thuốc: Đối chiếu vị trí trình bày Số đăng ký và Số lô sản xuất trên nhãn

Viên thuốc: nét khắc chữ “TK” trên viên thuốc giả không sắc nét; màu sắc trên viên thuốc giả không đồng nhất.

2- Phối hợp với các cơ quan truyền thông, thông tin tới các cơ sở buôn bán, sử dụng thuốc và người dân biết để không buôn bán, sử dụng sản phẩm Ophazidon giả có các dấu hiệu nhận biết nêu trên.

3- Phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan tiến hành kiểm tra các cơ sở kinh doanh thuốc trên địa bàn; xác minh thông tin và truy tìm nguồn gốc về sản phẩm Ophazidon giả nêu trên, xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm theo quy định hiện hành; kịp thời phát hiện và ngăn chặn việc sản xuất, buôn bán và sử dụng.

Dược sĩ

Trần Thị Diễm Trang

( Nguồn: CANH GIAC DUOC – DiemTin)


7405632A_1_TScb5b60d5-ff6b-4d89-aa2f-47f24d8ff429_1.jpg

23 Tháng Tám, 2022 Tin TứcTruyền Thông
Ảnh minh họa – nguồn Internet

Ticagrelor là chất ức chế P2Y12 được chấp thuận để ngăn ngừa các biến cố tim mạch. Gần đây, một nghiên cứu trên tế bào và chuột được đăng trên JAMA Cardiology cho thấy ticagrelor có hoạt tính kháng vi khuẩn gram dương đề kháng thuốc.

Một phân tích hậu kiểm đã cho thấy nhóm bệnh nhân dùng ticagrelor trong thử nghiệm lâm sàng có tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn thấp hơn so với nhóm dùng clopidogrel. Do đó các nhà nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm để xác định liệu ticagrelor có đặc tính kháng khuẩn hay không.

Các nhà nghiên cứu đã thử hoạt tính của ticagrelor và các chất chuyển hóa đối với một số vi khuẩn trên in vitro. Kết quả cho thấy:

  • Ticagrelor và một trong số các chất chuyển hóa có hoạt tính kháng khuẩn đối với tất cả các chủng vi khuẩn gram dương được thử nghiệm, bao gồm cả các chủng kháng thuốc.
  • Ticagrelor vượt trội hơn vancomycin trên các chủng  aureusvà S. epidermidis kháng methicillin (MRSA và MRSE).
  • Ở chuột, ticagrelor liều thường dùng ức chế sự phát triển của vi khuẩn trên mô cấy ghép bị nhiễm  aureus.

Nồng độ diệt khuẩn tối thiểu của ticagrelor dao động từ 20 – 40 mg/L đối với các chủng gram dương. Ticagrelor không có hoạt tính kháng vi khuẩn gram âm như Pseudomonas aeruginosa và Escherichia coli. Ticagrelor làm tăng hoạt tính diệt khuẩn của vancomycin, rifampin và ciprofloxacin. Tác động ức chế của sự hình thành màng sinh học phụ thuộc liều đã được ghi nhận trên MRSA, VRE và MRSE.

Lưu ý rằng với liều dùng để điều trị bệnh tim mạch, ticagrelor không đạt được nồng độ diệt khuẩn ở mức độ toàn thân, nhưng vẫn có thể có hoạt tính kháng khuẩn tại các vị trí nhiễm khuẩn do tác động tích lũy thuốc thông qua tiểu cầu. Các nhà nghiên cứu kêu gọi tiến hành thử nghiệm ngẫu nhiên để so sánh hoạt tính kháng khuẩn của ticagrelor với các liệu pháp chống tập kết tiểu cầu khác ở những bệnh nhân mắc bệnh tim mạch.

Bình luận

Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng giải thích hoạt tính kháng khuẩn có thể có của ticagrelor quan sát được trong các phân tích hậu kiểm của các thử nghiệm lâm sàng được tiến hành trước đây. Mặc dù tác động kháng khuẩn đáng kể trên in vitro chỉ thấy ở nồng độ cao hơn so với liều điều trị bệnh tim mạch, tác động kháng khuẩn và kháng màng sinh học mạnh của ticagrelor trong các nghiên cứu trên chuột cho thấy khả năng phối hợp với hệ miễn dịch của cơ thể. Các nghiên cứu lâm sàng trong tương lai sẽ hướng đến việc khảo sát việc sử dụng ticagrelor trong bệnh nhiễm nội mạch.

Tài liệu tham khảo

Patrizio Lancellotti, Lucia Musumeci, Nicolas Jacques, et al. Antibacterial Activity of Ticagrelor in Conventional Antiplatelet Dosages Against Antibiotic-Resistant Gram-Positive Bacteria. JAMA Cardiol. doi:10.1001/jamacardio.2019.1189. Link. Truy cập 01/06/2019.

Theo dõi website BỆNH VIỆN LÊ VĂN THỊNH (https://benhvienlevanthinh.vn/) để nắm thêm nhiều thông tin sức khỏe, dinh dưỡng, làm đẹp để bảo vệ sức khỏe cho bản thân và những người thân yêu trong gia đình.

Dược sĩ

ĐINH KHẮC THÀNH ĐÔ

(Nguồn: Medscape, Thông tin thuốc)


AESCIN-20MG.png

Ảnh minh họa: nguồn Internet
1. Dạng bào chế – biệt dược

Viên nén bao phim: Aescin 20mg

2. Chỉ định

– Điều trị thiểu năng tĩnh mạch mãn tính, giãn tĩnh mạch chân, trĩ.

– Điều trị viêm tĩnh mạch chân.

– Phòng và điều trị tụ máu, chống viêm, chống phù nề sau phẫu thuật và chấn thương.

3. Cách dùng – liều dùng: 

– Người lớn: Uống 2 viên/lần x 3 lần/ngày. Uống thuốc sau khi ăn và uống với nhiều nước. Với mục đích phòng ngừa nên dùng trước khi phẫu thuật ít nhất 16 tiếng.

Sau 2-3 tháng điều trị có thể dùng liều duy trì với 40mg (2 viên) mỗi lần, ngày uống 2 lần.

– Người già: Không cần thiết phải điều chỉnh liều lượng.

– Trẻ em: Không khuyến cáo sử dụng.

4. Chống chỉ định:

Không dùng Aescin cho những bệnh nhân:

– Qúa mẫn với bất cứ thành phần nào của thuốc.

– Tuyệt đối không dùng cho những bệnh nhân suy thận cấp.

– Phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.

5. Thận trọng:

– Trong suốt thời gian sử dụng liệu pháp điều trị với alpha-escin, phải kiểm tra chức năng thận.

– Không nên sử dụng Aescin với bệnh nhân có tiền sử bệnh không dung nạp galactose, thiếu hụt lapp lactase hoặc kém hấp thu glucose-galactose.

– Aesin có chứa chất tạo màu vàng cam (E 110) có thể gây các phản ứng dị ứng.

6. Tương tác thuốc:

– Với bệnh nhân đang dùng thuốc tránh thai, có thể tăng gấp đôi liều dùng Aescin.

– Aescin có thể làm tăng tác dụng của thuốc chống đông. Kháng sinh Cephalosporin có thể làm tăng tác dụng của Aescin.

– Nên tránh dùng đồng thời Aescin với kháng sinh nhóm Aminoglycosid do khả năng tăng độc tính của kháng sinh Aminiglycosid trên thận.

7. Tác dụng không mong muốn:

Rất hiếm gặp: Phản ứng quá mẫn, bao gồm nổi mày đay.

Hay gặp: Rối loạn đường tiêu hóa.

Thận trọng/Lưu ý

Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế trên từng đối tượng Người bệnh. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ trước khi quyết định dùng thuốc.

Trên đây là thông tin về thuốc Aescin 20mg, hy vọng những thông tin chúng tôi vừa chia sẻ sẽ giúp bạn đọc cập nhật thêm kiến thức về cách sử dụng thuốc Aescin 20mg một cách hiệu quả và an toàn nhất.

Theo dõi website: benhvienlevanthinh.vn để nắm thêm nhiều thông tin sức khỏe, dinh dưỡng, làm đẹp để bảo vệ sức khỏe cho bản thân và những người thân yêu trong gia đình.

Dược sĩ

Trần Thị Diễm Trang

Tài liệu tham khảo: Hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất


Arzneien-1024x683-1.jpg

23 Tháng Tám, 2022 Tin TứcTruyền Thông
Sử dụng kháng sinh không hợp lý : hậu quả và sự cần thiết quản lý sử dụng kháng sinh

Khi người bệnh sử dụng kháng sinh không hợp lý sẽ làm xuất hiện tình trạng vi sinh vật đột biến hoặc xuất hiện gen kháng thuốc, từ đó vi sinh vật đề kháng lại một kháng sinh mà trước đây vi sinh vật đã nhạy cảm. Việc sử dụng kháng sinh không hợp lý sẽ làm gia tăng sự đề kháng kháng sinh của vi sinh vật, dẫn đến giảm hiệu quả của kháng sinh, thất bại trong điều trị nhiễm khuẩn. Hơn nữa, sử dụng kháng sinh không hợp lý còn kéo theo sự gia tăng tỉ lệ lây nhiễm cho những người xung quanh, gây ảnh hưởng không nhỏ đến công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân.

sử dụng kháng sinh không hợp lý sẽ làm gia tăng sự đề kháng kháng sinh của vi sinh vật, dẫn đến giảm hiệu quả của kháng sinh, thất bại trong điều trị nhiễm khuẩn

Nhiều nghiên cứu đã ghi nhận có sự gia tăng tỉ lệ kháng thuốc so với trước đây, nhiều loại vi khuẩn kháng thuốc đã xuất hiện trong thời gian gần đây, trong đó rất nhiều vi khuẩn kháng với hầu hết các loại kháng sinh hiện hành, và các vi khuẩn này còn được gọi là vi khuẩn siêu kháng thuốc. Nếu thực trạng này vẫn tiếp diễn mà không có giải pháp phù hợp, thì với tốc độ tìm ra các thuốc phát minh hiện nay vốn đã không theo kịp với tốc độ vi khuẩn đề kháng thuốc, trong tương lai gần, việc thiếu thuốc sẽ là hậu quả tất yếu. Thiếu thuốc nói chung và thiếu kháng sinh nói riêng sẽ đưa xã hội loài người trở lại với thời kỳ khi con người chưa có kháng sinh như trước đây, nghĩa là không thể kiểm soát được tỉ lệ bệnh tật và thương vong vì không có khả năng tiêu diệt được vi khuẩn gây bệnh.

Những biểu hiện sử dụng kháng sinh không hợp lý

Việc sử dụng kháng sinh không hợp lý rất đa dạng, có liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, trong đó cán bộ y tế và người bệnh là hai đối tượng có sự liên quan trực tiếp.

Đối với cán bộ y tế, sử dụng kháng sinh không hợp lý xảy ra khi họ lựa chọn kháng sinh mà không tuân thủ theo hướng dẫn sử dụng kháng sinh của cơ quan quản lý về y tế. Trong thực hành lâm sàng, việc lựa chọn kháng sinh phụ thuộc vào hai yếu tố chính, đó là người bệnh và vi khuẩn gây bệnh. Những yếu tố liên quan đến người bệnh cần xem xét khi lựa chọn kháng sinh bao gồm tuổi, tiền sử dị ứng thuốc, chức năng gan thận, tình trạng suy giảm miễn dịch, mức độ nặng của bệnh, bệnh mắc kèm, cơ địa dị ứng của người bệnh. Các yếu tố liên quan đến vi khuẩn cần được xem xét khi lựa chọn kháng sinh bao gồm loại vi khuẩn, độ nhạy cảm với kháng sinh của vi khuẩn. Trong thực tế, những yếu tố liên quan đến người bệnh và vi khuẩn gây bệnh đôi khi không được xem xét một cách đầy đủ, dẫn đến việc lựa chọn kháng sinh không phù hợp. Ngoài việc phải lựa chọn kháng sinh theo đặc điểm của tác nhân gây bệnh và của người bệnh, cán bộ y tế cũng cần phải lựa chọn kháng sinh theo vị trí nhiễm khuẩn, theo dược động học, dược lực học của thuốc, và theo đặc điểm của mô hình kháng thuốc tại nơi mà người bệnh đang được điều trị. Về nguyên tắc, nếu đã có bằng chứng rõ ràng về vi khuẩn và kết quả của kháng sinh đồ, kháng sinh được lựa chọn cho người bệnh phải là kháng sinh có hiệu quả cao nhất với độc tính thấp nhất, đồng thời phải có phổ tác dụng hẹp nhất và gần với các tác nhân gây bệnh được phát hiện. Tuy nhiên, nhiều trường hợp trong thực tế khi quyết định lựa chọn kháng sinh để điều trị cho người bệnh, cán bộ y tế đã không xem xét các yếu tố về người bệnh và vi khuẩn gây bệnh một cách toàn diện, nhiều trường hợp sử dụng kháng sinh điều trị khi không có bằng chứng lâm sàng rõ rệt về nhiễm khuẩn. Trong hầu hết các trường hợp sử dụng kháng sinh không hợp lý đã được ghi nhận, nguyên nhân thường là do bác sĩ chưa biết được tác nhân vi khuẩn gây bệnh khi bắt đầu điều trị bằng kháng sinh cho người bệnh, nên bác sĩ thường dựa theo kinh nghiệm của mình để dự đoán những tác nhân vi khuẩn gây bệnh và tình hình nhạy cảm của vi khuẩn đối với các kháng sinh ngay tại địa phương, từ đó đưa ra quyết định về kháng sinh lựa chọn ban đầu cho người bệnh. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong một số trường hợp, ngay cả khi đã có bằng chứng vi khuẩn học, tình trạng lạm dụng kháng sinh vẫn xảy ra vì có trường hợp bác sĩ lựa chọn thuốc không theo tiêu chí “ưu tiên lựa chọn kháng sinh có hiệu quả cao nhất với độc tính thấp nhất, và có phổ tác dụng hẹp nhất gần với các tác nhân gây bệnh đã được phát hiện thông qua kết quả của kháng sinh đồ”. Có nhiều trường hợp người bệnh được chỉ định sử dụng kháng sinh phổ rộng, đôi khi không có khả năng đến được vị trí nhiễm khuẩn với nồng độ hiệu quả, hoặc đến được nơi điều trị nhưng gây độc.

Ngoài sự lựa chọn loại kháng sinh không phù hợp, việc sử dụng kháng sinh không hợp lý còn thể hiện ở trường hợp người bệnh không được lựa chọn đường đưa thuốc vào cơ thể một cách phù hợp. Trong hai đường sử dụng phổ biến của kháng sinh, đường uống là đường dùng ưu tiên hơn đường tiêm khi điều trị vì tính tiện dụng, an toàn và chi phí thấp hơn. Tuy nhiên, để có kết quả trị liệu tốt nhất trong trường hợp cần nồng độ kháng sinh trong máu cao nhưng khó đạt được bằng đường uống, ví dụ như khi người bệnh bị nhiễm khuẩn trầm trọng và tiến triển nhanh, trong khi cấp cứu hoặc trong trường hợp dự phòng trước phẫu thuật, đường tiêm lại là đường được cán bộ y tế ưu tiên sử dụng. Về nguyên tắc, kháng sinh đường tiêm chỉ nên sử dụng trong những trường hợp thật sự cần thiết, đồng thời cần lưu ý lựa chọn kháng sinh có sinh khả dụng cao và ít bị ảnh hưởng bởi thức ăn. Tuy nhiên, trong thực tế, kháng sinh đường tiêm vẫn được bác sĩ sử dụng ngay cả những khi không thật sự cần thiết, hoặc tiếp tục tiêm kháng sinh cho người bệnh mà không chuyển sang đường uống ngay khi có thể, dẫn đến tăng nguy cơ đề kháng thuốc.

Để hạn chế đề kháng thuốc, một trong những yêu cầu khi điều trị là cần lưu ý thực hiện việc xuống thang kháng sinh theo kết quả kháng sinh đồ, ưu tiên sử dụng một kháng sinh và chỉ phối hợp kháng sinh nhằm mục đích tăng khả năng diệt khuẩn, giảm khả năng xuất hiện chủng đề kháng và điều trị nhiễm khuẩn do nhiều loại vi khuẩn gây ra. Ngoài ra, đối với một số kháng sinh, cơ quan quản lý quy định nếu muốn chỉ định cho người bệnh thì phải tiến hành hội chẩn nhằm hạn chế việc sử dụng. Trong thực tế hành nghề, môi trường bệnh viện thường tồn tại nhiều chủng vi khuẩn đề kháng, dẫn đến nhiều trường hợp cán bộ y tế bắt buộc phải dùng kháng sinh liều cao, dùng kháng sinh phổ rộng, và duy trì đường tiêm để đảm bảo hiệu quả điều trị cho người bệnh.

Bên cạnh những trường hợp sử dụng kháng sinh không hợp lý liên quan đến cán bộ y tế, việc sử dụng kháng sinh không hợp lý còn liên quan đến nhận thức, hành vi và thái độ của người dân trong khi sử dụng thuốc. Đối với người bệnh, vì bản thân họ không đủ kiến thức chuyên môn cần thiết nên họ thường chấp nhận mọi chỉ định của cán bộ y tế, ngay cả khi nghi ngờ những chỉ định đó không hợp lý hoặc có thể ảnh hưởng xấu đến tình trạng sức khỏe của mình, vì họ không đủ tự tin để đưa ra những ý kiến có sức thuyết phục đến cán bộ y tế. Ngoài ra, nhiều trường hợp người bệnh thường không hoàn thành liều điều trị mà có xu hướng ngưng thuốc ngay khi thấy giảm những triệu chứng, dẫn đến sự gia tăng khả năng xuất hiện các chủng vi khuẩn đề kháng thuốc.

Những giải pháp nhằm hạn chế đề kháng kháng sinh

Hiện nay, chúng ta đang sống trong kỷ nguyên phụ thuộc kháng sinh, vì vậy cần nhận thức rõ thực trạng đề kháng kháng sinh đang là một vấn nạn mang tính toàn cầu, có liên quan đến nhiều quốc gia. Nhân ngày Sức khỏe thế giới 07/4/2011, Tổ chức Y tế thế giới đã kêu gọi thực hiện một chiến dịch với thông điệp “Không hành động hôm nay, ngày mai không có thuốc chữa” nhằm tạo một hồi chuông cảnh báo đến các quốc gia, đồng thời kêu gọi những hành động thiết thực và những kế hoạch hành động khẩn cấp của các tổ chức quản lý về y tế nhằm có những giải pháp tối ưu, hạn chế đề kháng thuốc, đồng thời yêu cầu người dân trên toàn cầu có trách nhiệm bảo vệ nguồn thuốc kháng sinh quý giá cho thế hệ sau.

Việt Nam là khu vực có mô hình bệnh tật kép, bên cạnh sự tồn tại của các bệnh không lây nhiễm như bệnh tim mạch, ung thư, tâm thần, đái tháo đường, nhiều năm trở lại đây, các bệnh nhiễm trùng, truyền nhiễm có tỉ lệ khá cao, trong đó phải kể đến các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp, nhiễm khuẩn đường tiêu hóa, sốt xuất huyết. Việc sử dụng kháng sinh để điều trị các bệnh nhiễm trùng hiện tại vẫn là một trong các liệu pháp điều trị không thể thiếu. Cùng với các nước khác trên thế giới, thông qua Kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng thuốc do Bộ Y tế ban hành, Việt Nam đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi “Không hành động hôm nay, ngày mai không có thuốc chữa” của Tổ chức Y tế thế giới. Đây là một kế hoạch chống kháng thuốc dài hạn, mang tính toàn diện và cấp thiết đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Tháng 3/2015, Bộ Y tế đã ban hành tài liệu chuyên môn “Hướng dẫn sử dụng kháng sinh”, giúp cho việc sử dụng kháng sinh tại các cơ sở y tế được thực hiện một cách hợp lý nhất. Bệnh viện là một trong những cơ sở khám chữa bệnh có tần suất sử dụng kháng sinh cao hơn các cơ sở y tế khác. Tài liệu “Hướng dẫn sử dụng kháng sinh” đã giúp cho các đơn vị, cho giám đốc cơ sở khám chữa bệnh có căn cứ để xây dựng và ban hành tài liệu sử dụng kháng sinh tại đơn vị, giúp đảm bảo hạn chế thực trạng lạm dụng kháng sinh. Hiện nay, các giải pháp đã và đang thực hiện thường tập trung vào việc quản lý sử dụng kháng sinh tại bệnh viện, trong đó, ưu tiên việc thành lập nhóm quản lý sử dụng kháng sinh, xây dựng các quy định về quản lý sử dụng kháng sinh trong bệnh viện, xây dựng tiêu chí đánh giá sử dụng kháng sinh. Bên cạnh đó, nhằm đạt được mục tiêu chống kháng thuốc, các giải pháp còn nhằm hướng đến nâng cao nhận thức của cộng đồng và cán bộ y tế về kháng thuốc, hoàn thiện hệ thống giám sát quốc gia về sử dụng kháng sinh và kháng thuốc, tăng cường kiểm soát nhiễm khuẩn.

Như vậy, việc sử dụng kháng sinh hợp lý đã và đang là yêu cầu quan trọng đối với thầy thuốc trong lựa chọn điều trị. Cán bộ y tế cần đảm bảo nguyên tắc ưu tiên sử dụng kháng sinh đơn độc, hạn chế phối hợp kháng sinh, và hạn chế dùng kháng sinh đường tiêm khi lựa chọn thuốc cho người bệnh, đảm bảo sử dụng kháng sinh hợp lý, góp phần hạn chế sự đề kháng thuốc, giúp tiết kiệm chi phí điều trị cho người bệnh, và giảm gánh nặng kinh tế cho xã hội.

PGS.TS.DS Hoàng Thy Nhạc Vũ


Bản Quyền © 2021 Bệnh Viện Lê Văn Thịnh - Thiết Kế và Phát Triển bởi Hân Gia Group